Về Hố Cao nghe hát then
[14.12.2007 01:03]
 |
Thầy Then - Chu Thị Vân |
Nghe hát Then là thú vui cuối cùng mà tôi tự thưởng cho mình trước ngày sang Matxcơva. Tôi dám chắc rằng khối người trong cộng đồng Việt Nam tại Nga đinh ninh rằng Then là loại hình dân ca của người Tày, người Nùng đại loại như Quan họ của người Kinh. Ai cũng hát được, có thể hát lúc nào thích và ở bất cứ chỗ nào có người muốn nghe. Hóa ra không phải...
Lẽ ra phải gọi là... cô Then!
Sau mươi lần hỏi đường và không nhớ đi bao quãng đường đất, vượt qua bao quả đồi thì chúng tôi đến được nhà chị Chu Thị Vân. Ngôi nhà khá tươm nằm trên sườn đồi và ngoảnh mặt sang một quả đồi khác, tầm nhìn khoáng đạt. Chị Vân đi hái củi, chỉ có anh chồng và đứa con trai ở nhà.
Trong lúc chờ chị Vân trở về, tôi chăm chú quan sát bàn thờ. Cây đàn tính dựng phía dưới, bên trên la liệt từng chùm sắc bùa đủ màu. Có vẻ đây là nhà của một thầy cúng hơn là của một nghệ nhân hát Then đã gặt hái nhiều giải thưởng ở huyện, tỉnh và khu vực. Quả đúng vậy. Chị Vân thừa nhận: “Tôi là thầy Then. Gọi thầy cúng cũng được. Then tiếng Nùng có nghĩa là cúng mà”.
Chị Vân giải thích cho chúng tôi, Then không phải là dân ca thông thường mà là những điệu hát dùng trong các lễ cúng. Chỉ có các thầy Then mới hát Then, không phải ai muốn hát thì hát. Chị Vân tâm sự: “Không phải tôi thích làm thầy Then đâu. Thánh chọn đấy. Hồi còn con gái tôi bị bệnh lẩn thẩn, đi bệnh viện chữa không được. Phải mời thầy cúng. Rồi tôi khỏi bệnh. Thầy phán rằng muốn trả ơn Thánh thì phải làm nghề thầy Then. Tôi học hát Then, học cách cúng lễ một tháng rồi làm thầy Then từ đó”. Tôi hỏi, vậy thầy Then khác thầy mo chỗ nào? Khác nhiều đấy. Chỉ có đàn ông làm thầy mo thôi. Còn thầy Then thì nhiều đàn bà. Thầy Then thì phải hát Then, nếu không thì sao gọi là thầy Then được. Thầy mo cũng hát, nhưng theo điệu khác, hát theo sách. Thầy Then không được giở sách, phải học thuộc lòng thôi. Thầy mo làm lễ cúng trừ bệnh tật, mừng thọ, ma chay, không xem bói. Thầy Then làm lễ cúng giải hạn, trừ bệnh tật, mừng thọ, không làm lễ ma chay và có xem bói.
Hát Then có nhiều bài. Bài một là Khen hương lên đường, báo cáo với tổ tiên là gia chủ cúng việc này, việc nọ. Bài hai, là cúng giải hạn, trừ bệnh tật, mừng thọ... (lễ cúng gì thì có bài hát riêng). Bài ba, làm lễ dâng tổ tiên. Bài 4, lễ phục hồn...
Thầy Then bình thường ở nhà, làm các công việc nhà nông như mọi người. Khi có người mời, mới xách cây đàn tính đi hát cúng. Hát suốt một đêm một ngày, hết khoảng 10 điệu. Có điệu chỉ dài 5 phút, có điệu kéo dài cả tiếng đồng hồ. Gia chủ phải sắm lễ gồm 3 con gà (nhất thiết phải 2 mái, 1 trống), gạo, xôi và tiền lễ. Tùy theo loại hình cúng lễ và hoàn cảnh của gia chủ mà lễ to hay nhỏ, tiền lễ có thể 50.000 đồng, 60.000 đồng hoặc 100.000 đồng.
Thời bao cấp hát Then vì gắn với cúng lễ nên bị liệt vào dạng mê tín dị đoan, bị cấm ngặt. Ngày nay hát Then được coi là bản sắc văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng nên được khuyến khích bảo tồn. Then cũng được cải biên để phục vụ sự nghiệp đổi mới, phục vụ công cuộc xây dựng CNXH. Nhưng chỉ hát theo điệu “Khen hương” thôi, không thể hát theo điệu giải hạn hay trừ bệnh được. Thành ra các bài Then mà chúng ta nghe trên sân khấu chuyên nghiệp hay hội diễn văn nghệ quần chúng đều na ná nhau. Chỉ lời là khác thôi. Mà đặt lời cho then không dễ, bằng tiếng phổ thông càng khó, nhiều khi phải ép nhạc, ép vần, thành ra điệu hát bị biến dạng.
Nể lời chúng tôi, thầy Vân, phải gọi là cô Vân mới đúng, khoác chiếc áo phụ nữ Nùng, ôm đàn tính hát cho chúng tôi nghe. Tiếng đàn phừng phừng, chưa thật điêu luyện, nhưng giọng hát khá mượt mà. Một điệu Then cải biên lời mới ca ngợi xã Hương Sơn:
“Ai mà thăm Hương Sơn quê noọng
Đừng chê Hương Sơn em nghèo đói đấy
Hương Sơn noọng chỉ có cái nương cái rẫy đấy
Và những cánh đồng bậc thang...”.
Phú quý giật lùi
Hương Sơn quả còn nghèo. Rất ít cánh đồng lúa. Đồi thì nhiều. Đất cằn khô. Thôn Hố Cao đúng như tên gọi, ở trên đồi cao. Thôn có 100 hộ với 500 khẩu, cuộc sống chưa thể nói là no đủ. Gia đình vợ chồng chị Vân có hơn 1 sào ruộng và 1 hécta đồi trồng bạch đàn, thuộc loại khá trong thôn. Anh Chu Văn Sinh, sinh năm 1971, kém vợ 2 tuổi, “hạch toán” thu nhập của gia đình cho chúng tôi nghe: Một năm thu từ lúa 4-5 triệu đồng, từ sắn 1 triệu đồng, từ cây bạch đàn 8 triệu đồng (4-5 năm thu hoạch một lần), chăn nuôi 3 lứa lợn được 10 triệu đồng. Đấy là chưa trừ chi phí đầu tư. Đi cúng một năm được 5-6 triệu đồng. Tiền thưởng từ các liên hoan văn nghệ của chị Vân cũng thêm vào ngân sách của gia đình một chút. Trước mỗi kỳ hội diễn người ta đưa lời mới để chị về nhà mày mò ghép nhạc, chỉnh vần.
Chị Vân lo rằng trình độ hát Then của các thầy Then đang theo đồ thị đi xuống. Chị là giọng hát Then có tiếng ở huyện Lạng Giang và tỉnh Bắc Giang, hội diễn quần chúng nào cũng được cử đi góp mặt. Giải vàng, giải bạc đều có cả. Nhưng so với người thầy của chị và các bậc tiền bối thì giọng chị kém xa, thuộc ít điệu hơn và ngón đàn còn chập chững. Các thầy Then lứa sau chị lại tụt mấy bậc. Có thầy chỉ giỏi cúng chứ không giỏi hát, giọng làng nhàng, chỉ thuộc ít điệu gọi là. Vốn cổ cứ mai một dần.
Tại thôn Hố Cao ngoài chị Chu Thị Vân còn một thầy Then nữa cao tuổi hơn. Đội ngũ tiếp cận chưa thấy ai. Và theo lời chị Vân thì không do con người chủ động mà ai “hợp số” thì “khắc được Thánh chọn”, thường thì trong dòng họ của thầy Then.
Hát Then, theo tập tục của người Nùng, không thể phổ biến rộng rãi vì nó gắn chặt với đời sống tâm linh. Ngoài thầy Then, không ai hát và học hát Then. Họa chăng một vài hạt nhân văn nghệ ở địa phương tập điệu “Khen hương” lời mới để tham gia các hội diễn. Nhưng thường thì người ta mời chính thầy Then đi hát cho tiện...
Bài và ảnh Trần Quang Vinh
| |
|