Tác phẩm đã in của Thiếu Khanh gồm có tập thơ “Khơi dòng”, in chung với Thu Lâm và Nguyên Thi Sinh, Canada, 1968, tập thơ “Trong cơn thao thức”, NXB Da vàng, Đà Nẵng, 1971. Từ bấy đến nay, ông chỉ công bố các tác phẩm dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt và tiếng Việt ra tiếng Anh và một cuốn “Từ điển cụm từ Việt Anh”, NXB Trẻ, năm 2005. Tập thơ “Tình Ca Thiếu Khanh” do Nhân Ảnh xuất bản, năm 2020 đánh dấu sự trở lại Thi Đàn của ông.
NBĐ xin trân trọng giới thiệu tập thơ “Tình ca Thiếu Khanh” cùng bạn đọc

Tình ca Thiếu Khanh (Thơ tình Thiếu Khanh). Bìa: Nguyễn Thành. Hình bìa: “Giao Cảm”, tranh Lương Trường Thọ (trưng bày tại Avant Garden Gallery , BroadwayStreet , Santa Ana city California), Nhân Ảnh Xuất Bản 2020. Giá sách: US$21.74. Đã phát hành trên hệ thống phát hành toàn cầu Amazon.
Trước khi đến với thơ tình Thiếu Khanh, xin mời độc giả đọc bài viết của cố nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết về Thiếu Khanh, một nhà thơ lính viết về nhà thơ lính.
37 NĂM TÔI MỚI GẶP THIẾU KHANH
Khoảng 1973-1974 tôi tình cờ có được tập thơ Trong Cơn Thao Thức của Thiếu Khanh. Tập thơ đã rách bìa, và cuối tập thấy ghi in ở Đà Nẵng 1971. Khi đó cuộc chiến tranh đang hồi ác liệt, tôi là bộ đội và Thiếu Khanh chắc là “lính Cộng Hòa” - vì thơ anh là thơ của một người lính. Tập thơ của anh hấp dẫn tôi vì sự chân thật đến nghẹt thở của một người lính chiến. Từ chuyện hành quân, nổ súng, ném bom đến tin vợ sinh con khi ba đang trong trận đánh đều được anh viết chân thật và lay động tận tâm can. Lúc đó tôi cũng đã làm thơ, đã có thơ in báo và đang chuẩn bị in một tập thơ lính. Đọc Thiếu Khanh, tôi giật mình khâm phục, ước gì viết được những câu thơ gan ruột như anh. Những câu thơ đến giờ tôi còn nhớ:
Ba thèm một lòng nôi suốt sáu năm lính thú
Có con ra đời làm chứng cho Ba
(Vì nếu không may mà Ba nằm xuống
Lấy gì xác nhận Ba đã có mặt trên đời!)
Chỉ có người lính chiến mới nhận ra được cái điều tưởng như đơn giản ấy. Đạn bom đã cướp đi biết bao người lính trẻ “chưa một lần được hôn” (Phùng Quán), họ thành liệt sĩ hay thành vô danh trong suốt cuộc chiến tranh dài như là họ chưa hề có mặt trong đời. Bởi vì cuộc chiến thật khốc liệt, không biết sống chết lúc nào:
“Vỗ vào đầu thấy đau
Ngắt vào thịt thấy đau
Da thịt nghe đau - dấu hiệu sống còn”
Và cái nghịch lý chiến tranh đã tạo nên biết bao bi kịch người lính, kể cả tình yêu mà mình luôn nâng niu trân trọng:
“Anh đi ném bom xé nát trăm miền
Rồi về dưới đó mua cành hoa nhân tạo
Sáng mồng một Tết cho em”
Những câu thơ chua chát và cay đắng thật hiếm có trong cuộc chiến!
Nhiều lần tới Đà Nẵng, tôi hỏi thăm xem có ai biết Thiếu Khanh không. Năm 1984, nhà thơ Đoàn Huy Giao (con rể nghệ sĩ Hoàng Châu Ký) bảo tôi là có biết anh nhưng không biết Thiếu Khanh hiện đang ở đâu. Rồi lâu quá, tôi nghĩ chắc anh vượt biên hoặc đi ra nước ngoài theo diện HO. Tuy vậy, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc những câu thơ của anh khi nói chuyện về thơ lính. Những câu thơ luôn nhận được sự đồng cảm và thán phục của công chúng.
Mãi đến đầu 2010, trên một chuyến xe chở đoàn nhà văn từ Hà Nội đi dự Đêm Thơ Quốc Tế ở Hạ Long, tôi ngồi ghế trước anh ngồi ghế sau mà không hề biết nhau. Xe gần đến Tuần Châu tôi hỏi anh tên gì? Anh rất hiền từ nói tên là Thiếu Khanh, khiến tôi ngạc nhiên vô cùng. Và khi biết tên tôi anh cũng ngạc nhiên không kém. Hóa ra sau này Đoàn Huy Giao cũng đã kể cho Thiếu Khanh là tôi đã có lần tìm anh. Tôi đọc thuộc những câu thơ gần 40 năm của anh, và anh gật gù đọc nối tiếp. Anh bảo nhiều bài thơ xưa anh không còn nhớ nữa, nhưng những câu thơ tôi thuộc thì anh vẫn nhớ. Hóa ra anh vẫn ở Việt Nam. Sau chiến tranh anh đi làm rẫy 22 năm rồi mới xuống Sài Gòn làm nghề dịch sách văn học, làm sách từ điển, và vẫn thầm lặng làm thơ. Thơ của anh vẫn nồng hậu và lãng đãng chất lính hào hoa xưa.
Xưa “Yêu em ta bỗng thành thi sĩ/ Thơ lính hong ngời mắt mỹ nhân”, và nay thì: “Chỉ hai đứa mình cũng đủ thành giao hưởng/ Mỗi nốt vui khởi xướng cả trăm
bè”.
Chúng tôi du thuyền ra Hạ Long, ngồi cáp treo lên Yên Tử rồi chụp ảnh kỷ niệm hai người lính hai chiến tuyến xưa, nhưng thơ thì không còn ranh giới nào cả, bởi thơ là điểm gặp nhau chung nhất của con Người.
Chiều nay tôi nhận được mail và tấm hình anh gửi. Lòng cảm động như nhận thư của người yêu.
“Sự gặp gỡ của hai chúng ta trong dịp này khiến tôi hết sức xúc động, nó làm cho những ngày ở Hà Nội của tôi thật có ý nghĩa mà nếu trước đó tôi không đi dự chắc là tôi không biết mình đã đánh mất một điều gì. (Tôi đã định không đi dự hội nghị này vì ... sợ không kịp hoàn thành một tác phẩm đang dịch dở dang. Về tới nhà tôi vội lao vào làm việc ngay cho kịp). Tấm ảnh Tạo gửi tôi, năm người chúng ta thật đẹp, và tất cả cùng rất vui. Tôi cũng gởi cho Tạo tấm ảnh chúng ta chụp ở núi Yên Tử. Tôi nhớ chúng ta có chụp một tấm ảnh nữa trước cổng Thiền Phái Trúc Lâm (?), nhưng tôi chưa tìm ra!”.
Vâng 37 năm người viết và người đọc mới gặp nhau mà như đã chơi với nhau từ lâu lắm...
Hà Nội, 21.1.2010
Nguyễn Trọng Tạo
1 Sâu trăm dặm biển,
thưa mười ngón tay
1.QUY NHƠN
Quy Nhơn đẹp quá phảỉ không em?
Quy Nhơn trong vắt nắng hồn nhiên
Quy Nhơn khúc khích nghiêng vành nón
Reo giữa lòng anh những tiếng chim.
Quy Nhơn đẹp quá phải không em?
Quy Nhơn ngường ngượng nắng chiều êm
Bàn tay mềm nắm bàn tay mạnh
Bước lạ bềnh bồng giữa phố quen.
Quy Nhơn hoa đào trên nét môi
Anh đi hồ hải bốn phương trời
Trang thư không hết niềm tâm sự
Thắp lửa rừng khuya nhớ nụ cười.
Quy Nhơn tóc dài như sóng đêm
Ru anh êm ái giấc mơ hiền
Mai kia sông núi mình quang rạng
Dành trọn đời anh để ngắm em.
Quy Nhơn lên trường mỗi sớm mai
Anh ra núi lớn nối sông dài
Bao giờ hai nửa trăng về một
Em có so bì ai nhớ ai?
Ngày xa Quy Nhơn ngày dài thêm
Quy Nhơn hun hút phía mây chìm
Chiều xưa còn đọng trên Gành Ráng
Chút nắng vàng phai áo lụa mềm?
Bây giờ mùa Đông hay mùa Xuân?
Quy Nhơn ngăn ngắt giấc mơ gần
Anh ngoài sông núi xa lồng lộng
Hướng một phương trời nhớ Tuyết Vân!
(Trảng Bàng – Tây Ninh, 12/1964)
2. BÓNG NGỰA
Khuya chìm
trăng quạnh
đèo xa
Lung linh bóng ngựa nhạt nhòa nẻo sương
Cõi xưa lạ dấu quên đường
Trong chiêm bao ngỡ y thường thoảng bay
Đêm dằng dặc
ngồi khoanh tay
Con trăng côi cút nhập bầy với ai
Lời nào mơn trớn bên tai
Nghe ra lau lách mọc dài châu thân
Ngựa về bóng ngã theo trăng
Chìm sau đuôi mắt tình nhân hững hờ.
(Trên đèo B’lao, đêm 6.1.1966)
3. BIỂN XƯA
Lòng xao con nước vỗ về
Trải sương bãi thuộc nằm nghe cát buồn
Dấu còng đọng dấu trăng suông
Bữa xưa trút biển vào hồn ngậm đau
Lạt lòng tay nhả tay nhau
Ta theo ngọn sóng ngàn sau luân hồi
Càng đong dòng cát chảy xuôi
Sâu trăm dặm biển thưa mười ngón tay
Non mòn biển cạn không hay
Dấu chân cổ tích chan đầy mê cung
Lòng im bỡ ngỡ lạ lùng
Áp môi cát đẫm thinh không chợt buồn.
4. BỐN MÙA
Xuân
Ra vườn thấy nắng rung rinh
Ai cười trong nón
cho mình ngẩn ngơ
Hạ
Nắng reo phơi phới trên đường
Nghe vang tiếng guốc tan trường
bữa xưa
Thu
Tóc dài chảy một dòng im
Trong veo làn nước
bóng thuyền Trương Chi
Đông
Tiệc tan
nhạc lặng
người về
Gió bay xác pháo bên hè nhà em.
5. ĐA TẠ
Cũng đành giả lả làm thinh
Tháng năm vỗ cánh một mình đã quen
Lòng người chậm nhớ mau quên
Non thề biển hẹn sao nên nỗi này?
Ân tình sấp ngửa bàn tay
Cuộc chơi đuổi bắt đổi thay ngậm ngùi
Chia nhau chén ngọt chén bùi
Lạc nhau nẻo ngược đường xuôi ngỡ ngàng
Dễ chừng nắng hửng sương tan
Đồi cao núi thấp xui nàng hồi tâm
Nặng lòng đa tạ cố nhân
Thấy cành cong laị băn khoăn ngại lời
Cuộc đời đã hóa trang tôi
Trăm năm
Thôi
xẩy tay rồi
hỡi em!
(Còn nữa)