Mai An NGUYỄN ANH TUẤN: NHỚ CHU VĂN SƠN
[11.06.2019 10:35]
Lần gặp cuối cùng trong bệnh viện, Chu Văn Sơn đã bị di căn lên não giai đoạn cuối, nhưng anh vẫn nhận ra bạn bè thân thiết của anh, cặp mắt anh sáng rực lên, rồi gắng gượng ngồi dậy cầm tờ tạp chí Văn Hiến mới có in bài của anh… Bùi Ngọc Minh nghẹn ngào, lay tay CVS: “Còn hoành tráng lắm… Tươi tỉnh lắm…”. Anh đã cười, cái cười bao dung, thương mến quen thuộc bao năm nay đối với các bạn. Anh cười mà chúng tôi nuốt nước mắt vào lòng, để tới hôm nay mới có thể òa ra được một mình khi nhớ thương anh, thầm lặng đưa tiễn anh về nơi mà thi hào Nguyễn Du hằng mong mỏi: Nghìn thuở nơi chín suối vẫn có mùi hương (Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương).
Nhớ những ngày tháng của hội cao học văn ĐH Sư phạm HN, tôi và CVS dù không trong hội này, nhưng vẫn dành nhiều buổi tối vào trường để tụ họp vui vẻ, đọc thơ đọc văn của nhau để khen và để “phang” cật lực… Thời đó, anh đã có những “ký họa chân dung” ( cả ký họa viết lẫn ký họa vẽ) đầy hóm hỉnh, tinh nghịch, có chút chế diễu nhưng chân xác về bạn bè - như Hoàng Thế Sinh, Trần Hòa Bình, Châu Hồng Thủy, Nguyễn Hiền Lương, Văn Giá, và tôi… Bên ngoài quan sát, cũng có thể thấy anh yêu bạn, quý bạn, và hiểu bạn đến thế nào!
Nhớ lần tôi đến mượn anh cuốn Ba đỉnh cao thơ mới, cuốn sách anh đã tặng tôi nhưng bị mất, để foto lại cho nhà nghiên cứu Đỗ Đình Thọ ở Nam Định theo yêu cầu- người đã có nhiều tích lũy về nhà thơ Nguyễn Bính. Anh cảm động lắm, nhưng tính anh thường bộc lộ tình cảm của mình bằng cách hài hước, anh bảo: “Ồ, cái bác nổi danh kẹo Sìu Châu đó mà yêu Nguyễn Bính đến thế, có nhiều kỷ vật của Nguyễn Bính như thế, em mà có cương vị, sẽ mời bác ấy làm “thủ từ” Bảo tàng Hội nhà văn ngay!- Rồi anh thủ thỉ tâm tình - Không biết người viết khác thế nào, em thì chỉ cần một người đọc hiểu mình, đồng cảm với mình là em sướng cả đời!”
Nhớ ngày anh đòi tôi đưa đến cậu em trai tôi là họa sĩ Nguyễn Anh Lanh để anh được học hỏi thêm về hội họa. Khi tôi bảo sẽ giới thiệu một họa sĩ nổi hơn, anh gạt phắt: “Bác buồn cười! Khi được xem tranh của ông già bác và hai em trai bác, em hiểu đó là thứ tranh khác xa với loại sú-vơ-nia mà ngay nhiều họa sĩ có tên tuổi hiện giờ đã mắc phải… Em là em tìm đến học cái kỹ thuật của những người đã vứt bỏ kỹ thuật để chăm chăm diễn tả nội tâm cơ!” Anh đã cho tôi một bài học đích đáng.
Nhớ lần cả bọn đi cùng, gần như là tháp tùng GS. Nguyễn Đăng Mạnh- thầy chung của chúng tôi thăm đền Hùng. Hôm đó, CVS đeo lủng lẳng chiếc máy ảnh Nikon đời mới ống kính Zoom 35-75mm mà dân chuyên nghiệp cũng phải thèm thuồng. Thấy tôi nhìn dáng anh vẻ hâm mộ và cũng muốn hỏi, anh cười hơi e thẹn, nói nhỏ với tôi: “Các anh ngày trước chỉ có máy ảnh vi-dơ ngắm bên cạnh, cùng lắm là máy vi-dơ ngắm trực tiếp của Nga… Giờ thì phải khác, kỹ thuật cũng giúp cho nghệ thuật nhiều đấy chứ! Có gì, anh chỉ bảo giúp thêm nhé?” Trước đó, vì tôi là dân của hình ảnh, nên anh đã hỏi tôi nhiều về tính năng của các loại ống kính, các loại thân máy ảnh, tôi cũng biết đâu bảo đấy; nhưng anh lại nói: “Em cần hơn là những tri thức về bố cục khuôn hình, về những điều nằm sau ống kính để bức ảnh sẽ là “Ảnh trung hữu thi” cơ!”… Chúng tôi cùng bật cười phá lên. Những bức ảnh của CVS sau đó, cũng như các bức tranh ký họa của anh, dù là chưa cao lắm về kỹ thuật, song quả là đã có điều gì đó khác lạ so với những bức ảnh kỷ niệm thuần túy, chúng đều ẩn chứa một cách nhìn đầy chất thơ đắm đuối đối với con người và cảnh vật… Giờ đây, đọc lại những trang tùy bút của anh, tôi mới chợt ngã ngửa người, đằng sau những trận pháo hoa chữ nghĩa đôi khi làm hoa mắt người đọc kia là cái nhìn cực kỳ tinh tế của một họa sĩ, một nhà nhiếp ảnh, là các giai điệu chuẩn xác trong tổng phổ của một nhạc sĩ… Hóa ra, việc cố gắng đi sâu vào khám phá hội họa, nhiếp ảnh, kiến trúc, âm nhạc cũng là một cách thức để anh chăm chút, hoàn thiện cho văn chương, đắp da thịt cho những vấn đề lý luận văn học xương xẩu!
Nhớ lần tôi gửi anh đọc góp ý cho lời bình bộ phim tài liệu: Vụ án hồ Mù Sương, anh chỉ thêm vào một câu: Mờ mờ nhân ảnh trên sóng nước Hồ Tây. Tôi giật mình. Câu thơ quen thuộc của Nguyễn Gia Thiều: Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm lại được đặt đúng chỗ, đúng cảnh ngộ của người bị án oan 900 năm trước và tâm trạng của những người làm phim hôm nay nên đã nổi bật lên không ngờ, mà tài hoa cùng sự nhạy cảm của CVS đã phát hiện ra!
Nhớ CVS, người đã từng ân hận khi viết một bài phê bình ưu ái cho một nữ thi sĩ trẻ, sau đó cô ta đem bài phê bình đó như cái bùa hộ mệnh để chạy chọt giải thưởng… Mắt đỏ ngầu, anh lắc đầu nhẹ, thở dài: “Em nể cô ta cứ nằn nì viết hộ, thấy cũng được, đã thiên về ưu điểm; song còn lễnh loãng chữ nghĩa lắm, nhiều triết lý gượng ép, lại làm ra vẻ đã là nhà thơ lớn; nhất là sự háo danh sẽ giết chết sự nghiệp nhiều triển vọng của cô ta…”. Anh hiện lên trước tôi là một nhà giáo đáng kính.
Nhớ ngày lên thăm trang trại của hai vợ chồng anh trên Hòa Lạc mà chúng tôi gọi đùa là “Chu Gia Trang”, anh hớn hở giới thiệu cho chúng tôi từng loại cây, hoa anh chị mới sưu tầm được trồng quanh trang tại; anh bảo, còn muốn tìm một cây hoa ban tận núi rừng Tây Bắc - anh nhờ tôi lo hộ…
Nhớ biết bao các dòng viết đắm say và thấu hiểu về bạn mà như viết về chính mình của CVS… Tất cả các bạn anh từ nay sẽ sưu tầm lại những hạt ngọc tâm hồn đó của anh, không sót một hạt nào - như một thứ di sản vô giá của anh để lại cho đời. Tôi xin là người bạn đầu tiên của anh khởi động công việc thiêng liêng này, như một sự tri ân sâu sắc, một lời cảm ơn đối với anh - một nhà phê bình văn học đáng nể trọng, một người bạn thân yêu đã đi xa…
Chu Văn Sơn:
“Cám ơn Nguyễn Anh Tuấn về mấy bài thơ vừa gửi !
Thì ra, thơ mới là ngọn nguồn, gốc rễ, mới là nơi qui tụ mọi chiều của tâm hồn nghệ sĩ Nguyễn Anh Tuấn! Lõi của mọi hoạt động nghệ thuật của anh là thơ. Và Nguyễn Anh Tuấn sinh ra dường như để dành riêng cho Tây Bắc. Hồn Tây Bắc là hồn thơ Nguyễn Anh Tuấn. Đọc thấy cái gì cũng thuộc về Tây Bắc. Viết về Tây Bắc, Tuấn trải cả hai nguồn tình cảm mạnh là thương và giận... Tuấn có tìm được lối thoát cho những nhành hoa ban không? Khi cát bụi thị trường đang làm hoen ố những cánh hoa ban tinh khiết như một xu thế không cưỡng nổi, tâm hồn thi sĩ có thể đem suối nguồn về gột rửa, thanh lọc được không, có thể hoàn nguyên cho những nẻo rừng và những sắc hoa kia không? Tuấn đau, vì lờ mờ cảm thấy hiện tại không có câu trả lời nào về điều đó. Thơ Tuấn là bi kịch của hồn Tuấn: một Tây Bắc bị ô nhiễm, một sắc hoa ban đầy trầm cảm, một Camera trầm uất...”
( Thư điện tử ngày 15-6-2008)
“Ngồi đọc một mạch thông cả bản thảo tập thơ cùng bản thảo truyện ngắn "Bé Siu" Tuấn vừa gửi, thấy như lần đầu tiên phát hiện ra Nguyễn Anh Tuấn. Như dải đồi cằn, cất giấu bên trong cả một nguồn suối mát lành, như một sơn hệ gầy còm, tàng trữ bên trong nhiều vỉa quặng quí. Lần đầu tiên thấy sau con người trôi nổi phù du, một bến bờ đằm thắm. Đọc thơ Tuấn, qua từng bài, như lần lần vén một bức rèm nhàu bụi mà thấy một khung trời trong, vén những lang bang bụi bặm che khuất nửa đời người để thấy giữa khung trời ấy cả một cánh rừng hoa ban. Lần đầu tiên, những cánh ban bị chìm khuất khoe ra nét hoang sơ mà tinh khôi của nó.
Suốt cả tập thơ, Tuấn hiện ra như một kẻ đánh mất một bảo vật đầu đời để suốt đời lang thang tìm lại. Bảo vật của chàng trai Hà Nội, ai ngờ, lại là sắc hoa ban Tây Bắc. Nó là sắc hoa. Nó là tình người. Nó là vẻ hồn nhiên ban sơ. Nó là nét đẹp riêng của văn hoá Tây Bắc... Nó là tấc lòng con dành cho cha, tấc lòng cha dành cho đứa con muộn mằn. Nó là tấm tình thầy dành cho trò, là tâm hồn trò dành cho thầy, là tấc lòng tri âm dành cho tri kỉ đang ở phương xa, là giọt nước đầu nguồn, là ánh trăng giữa rừng, là ánh mắt của bé Siu... Tất cả những thứ ấy, đối với hồn thơ Tuấn, chẳng qua chỉ là những hiện thân khác nhau của cùng một sắc hoa ban muôn thuở thôi. Tuấn đã tìm nó, cặm cụi, lủi thủi trên những chặng đời, trên những chặng thơ. Lúc nào cũng thiết tha và thảng thốt. Được một cánh ban rụng rơi đây đó trên những nẻo đường Tuấn qua, Tuấn đều vừa tiếc xót cho một sự vẹn nguyên đã bị tàn phai, li lìa, vừa mơ hồ nhen lên một hi vọng về sự hoàn nguyên vẫn lặng chờ đâu đó ở cuối những cánh rừng xa. Và Tuấn cứ đi, cứ lần theo những cánh hoa ban, như Trọng Thuỷ lần theo vệt lông ngỗng để tìm nàng Mỵ Châu. Làm sao có thể gìn giữ được hi vọng này: không như Trọng Thuỷ cuối cùng chỉ còn gặp được xác Mỵ Châu, sau những chặng đời đầy cặm cụi, cuối cùng Tuấn sẽ đến được cánh rừng hoa ban nguyên lành, ở đó hoa ban vẫn e ấp nở nụ cười thanh khiết vĩnh cửu của thiên nhiên?
Một thi sĩ đích thực phải là người suốt đời nâng niu cái mà mình cho là giá trị. Nó là vẻ đẹp riêng, là hạnh phúc riêng mà người thi sĩ đem đến cho cõi nhân sinh. Vẻ đẹp của Tuấn là hoa ban. Hạnh phúc của Tuấn là được sống bên sắc thanh khiết của hoa ban. Vì nó mà có Tuấn, vì nó mà có hành trình nghệ thuật của Tuấn. Và, với tập thơ này, tôi đã có Tuấn. Người đọc đã có Tuấn...”
( Thư điện tử ngày 15-8-2008)
“Ba bài thơ về Trung Quốc của Tuấn là Sở kiến hành hiện đại. Nguyễn Anh Tuấn như một vị sứ quan chứ không như một du khách. Mang trong mình những tình cảm nhân văn do văn học Trung Quốc nuôi dưỡng, NAT đã nhìn hiện thực Trung Quốc hiện thời bằng cảm xúc vừa xót thương vừa cao ngạo. Cảm xúc và triết luận quyện vào nhau. Về nghệ thuật, cả 3 bài đều rất điện ảnh. Bài 1, camera quay toàn cảnh từ trên cao lướt qua hàng loạt những cái "đại" nhấp nhô đây đó, cuối cùng thấy gốc của những cái đại ấy là đại tham ác. Bài 2, theo lối "mờ chồng", từ hình người đàn bà hành khất, sau khi đặt một Tệ vào lòng bàn tay già nua, chỉ tay nhằng nhịt ngoằn ngoèo như tấm bản đồ Trung Hoa, bà mờ đi, để hiện dần hình ảnh thím Tường Lâm, rồi thím lại mờ đi, nhường chỗ cho một hình ảnh khác. Bài 3, Camera đặc tả cận cảnh những vòm liễu như những ngọn bút nhúng xuống nghiên mực mênh mông, rồi sau đó ống kính lần theo suy tư... Có thể xem như đây là lối thơ điện ảnh-triết luận…”
( Thư điện tử ngày 25-10-2008)
Chân dung
Tặng NAT
Như gã trai tơ bị hớp hồn tình ái
Tuấn phải lòng một sắc hoa ban
Như chàng trai miền xuôi lên đồng rừng bị ếm
Tuấn bị bỏ bùa bởi một sắc hoa ban
Như tù nhân chung thân trong ngục thất
Tuấn bị cầm tù bởi một sắc hoa ban
Như người nợ nghĩa tình không trả nổi
Tuấn một đời mắc nợ hoa ban
Như hiệp sĩ trước bất bằng thách đấu
Tuấn nguyện làm hiệp sĩ của hoa ban...
(Nhà văn Chu Văn Sơn)
|