H?I VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM TẠI LB NGA
TUYỂN THƠ “NỐI HAI ĐẦU THẾ KỶ”
(Thơ người Việt tại Nga và Liên Xô cũ)
NXB Hội Nhà văn – Hà Nội – 2014
Sưu tầm và Biên soạn: Châu Hồng Thủy, Nguyễn Huy Hoàng, Nguyễn Quang Thiều
Chủ biên: Châu Hồng Thủy
LỜI GIỚI THIỆU
TUYỂN THƠ “NỐI HAI ĐẦU THẾ KỶ” TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC VIỆT NAM
Do những biến động lịch sử, từ nửa sau thế kỷ XX, số phận của dân tộc Việt Nam gắn bó một cách chặt chẽ với Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô), đặc biệt là với nước Nga, trụ cột của Liên bang.
Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, nhân dân Nga và Liên Xô luôn sát cánh cùng nhân dân Việt Nam, là chỗ dựa vững chắc về mọi mặt để giúp cho Việt Nam giành độc lập và thống nhất đất nước.
Cộng đồng người Việt Nam có mặt đông đảo tại Liên Xô cũ và LB Nga hiện nay là một hệ quả của sự gắn bó sâu sắc ấy.
Với độ lùi thời gian cho phép, thiết nghĩ, đã đến lúc chúng ta cần phải có những công trình nghiên cứu nghiêm túc về sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam tại LB Nga và Liên Xô cũ, cũng như sự hình thành phát triển của dòng văn học của người Việt Nam hải ngoại hơn một nửa thế kỷ vừa qua.
Năm 1950, hai nhà nước Liên Xô và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhân dân Việt Nam thật sự hiểu biết và gắn bó với đất nước Liên Xô khi đoàn 100 học sinh, sinh viên Việt Nam đầu tiên được nhà nước cử sang Liên Xô học tập vào năm 1954. Kể từ đây, liên tục hàng năm, hàng chục nghìn người Việt Nam đến Liên Xô để tiếp thu kiến thức khoa học. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực đào tạo cán bộ, cho đến năm 1990 (năm cuối cùng của Hiệp định Xô Việt), trong gần 40 năm, Liên Xô đã đào tạo cho Việt Nam hơn 20.000 cán bộ có trình độ đại học, trong đó có 3.500 phó tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, bồi dưỡng hơn 6.000 thực tập sinh khoa học. Hơn 55.000 công nhân và thực tập sinh nâng cao tay nghề đã học tập tại các trường dạy nghề và các cơ sở sản xuất. Nhiều người theo học ở Liên Xô đã trở thành những nhà lãnh đạo Đảng, nhà nước, các nhà hoạt động khoa học, xã hội nổi tiếng của Việt Nam.
Đã một thời, được đặt chân đến nước Nga và Liên Xô là niềm mơ ước khát khao của bao người Việt Nam. Vì thế, bên cạnh đội ngũ những người học tập dài hạn, thì những người đi công tác hoặc tham quan, du lịch ngắn hạn trên đất nước Liên Xô hàng năm không hề ít.
Người Việt Nam trở thành một cộng đồng đông đảo bắt đầu từ năm 1981, khi gần 100 nghìn thanh niên Việt Nam đến làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp của 6 nước cộng hoà thuộc Liên Xô: LB Nga, Ucraina, Belarusia, Litva, Latvia, Estonia (chủ yếu tại nước Nga) theo Hiệp định Hợp tác lao động giữa hai nhà nước Xô - Việt. Từ đó trở đi, mỗi năm có khoảng 20 nghìn người Việt Nam được tuyển sang làm việc. Tổng cộng có đến hơn 200 nghìn công nhân có mặt tại Liên Xô.
Năm 1992, Liên Xô giải thể. Các hợp đồng lao động giữa nhà máy và công nhân Việt Nam bị huỷ bỏ giữa chừng. Trong hoàn cảnh ấy, nhiều người Việt Nam muốn về nước, nhưng nhà máy không có tiền để mua vé cho họ. Bên cạnh đó, nhiều người tự nguyện muốn ở lại làm ăn. Những người ở lại đều phải tự lo liệu, xoay sở cho cuộc sống của mình. Như vậy cộng đồng người Việt Nam tại Nga và một số nước thuộc Liên Xô chính thức hình thành “sau Hợp tác lao động", hay còn gọi là thời kỳ "Hậu Liên Xô". Sự hình thành này do hoàn cảnh lịch sử khách quan tạo nên.
Trong những năm tháng sống xa Tổ quốc, người Việt Nam đã dùng ngòi bút ghi lại những ấn tượng, tình cảm của mình với thiên nhiên đất nước, con người, văn hoá và lịch sử của nhân dân Liên Xô, tình cảm nhớ thương những người thân yêu ruột thịt ở quê hương, ghi lại cuộc mưu sinh vất vả của đồng bào mình nơi đất khách quê người... Ban đầu đơn thuần chỉ là nhu cầu giãi bày của mỗi cá nhân, là sự tự trải lòng mình. Một cách tự nhiên, dòng văn học Việt Nam xa xứ trong mấy chục năm qua đã hình thành từ ghi chép của mỗi một cá nhân ấy.
Chúng ta không rõ thế hệ các nhà cách mạng Việt Nam đến Liên Xô nửa đầu thế kỷ 20 có sáng tác hay không, nhưng biết chắc chắn từ sau năm 1954, Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi... và hàng loạt những nhà văn tên tuổi khác đã có nhiều bài thơ, bút ký của mình sau những chuyến công tác ngắn hạn, hoặc tham quan du lịch theo lời mời của Hội nhà văn Liên Xô. Nhà thơ Việt Nam đầu tiên viết về Liên Xô (nước Nga) là Tố Hữu, nhưng là Liên Xô trong tưởng tượng (Lão đầy tớ,1938), đến hai chục năm sau, ông mới được đến Liên Xô trong đời thực, mới có câu thơ lấy cái đẹp của người con gái Nga làm chuẩn mực so sánh (Đẹp như người con gái nước Nga). Văn học Nga – Xô viết là cái nguồn nuôi dưỡng nhiều tài năng thi ca trong các thế hệ sinh viên Việt Nam trên các giảng đường Đại học Liên Xô. Nhiều người không theo nghiệp thơ văn, nhưng trong hành trang đem về nước của họ có nhiều bài thơ viết về Liên Xô, viết ở Liên Xô. Có người vì tình yêu với thơ ca Nga đã từ lĩnh vực nghiên cứu khoa học khô khan trở thành nhà thơ nổi tiếng như nhà thơ Bằng Việt. Lớp các nhà văn, nhà thơ trưởng thành thời kỳ chống Mỹ, sau khi đất nước thống nhất được cử sang học tập bồi dưỡng ngắn hạn ở Trường viết văn Gorki (Matxcơva) như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Phan Thị Thanh Nhàn, Xuân Quỳnh, Ý Nhi... cũng đều ghi lại dấu ấn của Liên Xô qua những trang thơ và bút ký của mình...
Dòng văn học Việt tại Nga và Liên Xô thực sự hình thành, từ khi cộng đồng người Việt trở nên đông đảo vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, với những tác giả nhiều năm sống gắn bó với mảnh đất này. Xuất hiện một đội ngũ sáng tác thơ văn hùng hậu đang học hệ chính quy dài hạn tại Trường Viết văn Gorki như Trần Đăng Khoa, Khánh Chi, Nguyễn Đình Chiến, Vũ Xuân Hương, Thuỳ Linh, Châu Hồng Thuỷ, Hàm Anh; tại các Trường Đại học, các Viện Hàn lâm như Hồ Quốc Vỹ, Vũ Đình Huy, Nguyễn Huy Hoàng, Phạm Công Trứ, Bùi Quang Thanh, Mai Quỳnh Nam, Hữu Đạt, Lê Tây, Võ Thị Thu Trang, Tử Huyền, Hoàng Xuân Tuyền, Phan Chí Hiếu, Thiên Can, Nguyễn Văn Tài. Lê Anh Tuấn... và những tác giả thế hệ gần đây như Thuỵ Anh, Thi Ải Bắc, Hoàng An, ... Có những người gắn bó với mảnh đất này 10 đến 15 năm, có nhiều người hơn một phần tư thế kỷ... Với sự ra đời của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga năm 1994, hoạt động văn học của họ không còn là tự phát, đơn lẻ, mà có tôn chỉ, mục đích rõ ràng. Chính đội ngũ này đã làm nòng cốt tạo nên dòng Văn học Việt Nam xa xứ tại LB Nga và Liên Xô.

Bìa 1 và 4 Tuyển thơ Nối hai đầu thế kỷ. Họa sĩ Văn Sáng
Bằng chứng đầu tiên của sự hình thành dòng văn học ấy là sự ra đời của Tạp chí “Đất nước” thuộc Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô vào năm 1989. Tiếp theo là Tạp chí “Người Bạn Đường” (1992) và “Tao Đàn” (2004) chuyên về Văn học Nghệ thuật của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga; Báo “Khoa học & Cộng đồng” (1993) và “Hoa đào xứ tuyết” (1997) của Hội KH & KT; Tạp chí “Huế trong ta” (1998) của Hội những người yêu Huế; Tạp chí “Đoàn kết” (2004) của Hội người Việt Nam tại LB Nga; cùng các tạp chí tư nhân như “Thông tin & Thời đại”, “Đồng hương”... Trên các tạp chí này, thơ văn, bút ký, truyện ngắn của người Việt tại Nga, Liên Xô được đăng tải với nội dung phong phú.
Mặc dù cuộc mưu sinh những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 rất nhọc nhằn, vất vả, nhưng những cây bút trong cộng đồng người Việt tại Nga và Liên Xô vẫn không vì thế mà mai một sự say mê sáng tạo. Nhờ có họ, mà nhân dân sở tại nhìn nhận người Việt Nam không chỉ là một cộng đồng chỉ biết lầm lụi làm ăn buôn bán, mà còn là một cộng đồng có văn hoá. Văn học đã góp phần nâng cao vị thế của người Việt.
Bằng chứng quan trọng nhất là các tập thơ văn của các tác giả được xuất bản tại Nga và gửi về in trong nước có một bề dày đáng kể: Nhà thơ Nguyễn Đình Chiến có “Hoàng hôn nhớ” (Tập thơ, Matxcơva 1992) và “Vầng trăng trên tuyết” (Tập thơ, Hà Nội 2001), Hữu Đạt có “Hai đầu bức thư tình” (Tiểu thuyết, Hà Nội 1991), Nguyễn Hiếu với “Tuyết nóng sau mặt trời” (Tiểu thuyết, Hà Nội 1993); Thiên Can với 4 tập sách liên tiếp “Hoa Bồ công anh” (Tập truyện ngắn, Matxcơva 1998), “Mùa lấy mật hoa Bạch dương” (Tập truyện ngắn, Matxcơva 1999), “Duyên” (Truyện dài, Matxcơva 2000) “Bông sen bên dòng Kadanka” (Tiểu thuyết, Matxcơva 2002); Nguyễn Văn Tài với "Nơi gặp gỡ của những thân phận" (Tập truyện ngắn, Hà Nội 1999); Bùi Quang Thanh với “Heo may xứ Tuyết” (Tập thơ, Matxcơva 2001) và “Thao thức cuối trời” (Tập thơ – văn, Hà Nội 2008), Vũ Xuân Hương với “Bụi Thiên hà” (Tập thơ, Hà Nội 2009), Châu Hồng Thuỷ với “Những bông tuyết mùa Hè” (Tập thơ, Matxcơva 2004) và “Lãng du” (Tập thơ, Matxcơva 2012); Nguyễn Đình Lâm với “Con kiến tật nguyền” (Tập truyện ngắn, Matxcơva 2004), “Tình yêu hàng chợ” (Tập truyện ngắn, Hà Nội 2005) và “Mong manh xứ Bạch dương” (Tiểu thuyết, Hà Nội 2009), Võ Thị Thu Trang với “Khoảng trời xưa” (Tập thơ, Hà Nội 2009), Phan Đăng Xiêm với “Hát mãi lời tình yêu” (Tập thơ, Matxcơva 2007) và “Gửi nhớ về em”, (tập thơ, Hà Nội, 2014)... Đặc biệt, nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng sau tập thơ đầu tiên “Ngoảnh lại” từ năm 1995 đến nay, đã có hơn 13 tập sách gồm thơ và truyện ký được in tại Nga và trong nước. Tập thơ thứ 9 của Nguyễn Huy Hoàng ra mắt gần đây nhất là “Canh ngọn đèn đợi sáng” (2013).
Các nhà thơ, nhà văn Trần Đăng Khoa, Phạm Công Trứ, Mai Quỳnh Nam, Hàm Anh, Nguyễn Tiến Hoá và một số tác giả khác... sau khi rời nước Nga, mới cho xuất bản thành tập ở trong nước những tác phẩm viết trong thời gian ở nước ngoài. Phạm Công Trứ dành riêng một phần Tuyết trong “Lời thề cỏ may II” (1993); Mai Quỳnh Nam có “Bước trượt” (Tập thơ,1995); Thuỳ Linh với “Đừng rung cây mùa lá rụng” (Tập truyện ngắn, 2004) và “Gió mưa gửi lại” (Tập truyện ngắn, 2004), Hàm Anh có “Màu tự nhiên” (Tập thơ, 2008); Nguyễn Tiến Hóa có tiểu thuyết “Địa tầng đứt gẫy” (Tiểu thuyết, Hà Nội 2012)... Ở Ucraina, tuy không có đội ngũ hùng hậu như ở Nga, những cũng đã có những nhà thơ, nhà văn có nhiều tập văn thơ dày dặn in ở trong nước như Đỗ Thị Hoa Lý với hai tập thơ “Quê hương tôi” (2011), “Hồi ức mùa hè” (2012); Vũ Thương Giang có các tập thơ: “Hoài niệm Hội Lim” (2011), “Giọt buồn” (2011), “Gửi người xa” (2013); Việt Văn với “Thơ Việt Văn” (2011); Vũ Tuấn Hoàng với tiểu thuyết “Bị vứt vào cõi đời” (2009) và tập truyện ngắn “Ác mộng giữa Paris” (2011). Bên cạnh những tập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết của các cá nhân, còn có nhiều Tuyển tập Thơ và Truyện ngắn do Tạp chí Đất nước và Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga xuất bản như: “Đất nước” (Tuyển thơ, Matxcơva 1991), “Người con gái trên tầu điện ngầm đi Riskaia” (Tuyển truyện ngắn, Matxcơva 1992), “Những nẻo đường xứ tuyết” (Tuyển thơ, Matxcơva 1995), “Tuyết ấm” (Tuyển thơ, Matxcơva 2003).
Tuyển thơ “Nối hai đầu thế kỷ” mà chúng tôi gửi đến bạn đọc hôm nay chỉ là một phần rất nhỏ trong thành tựu văn học của cộng đồng người Việt tại Nga và Liên Xô.
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tại LB Nga (1994-2014), tiến tới kỷ niệm 65 năm (1950-2015) ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Xô – Việt (nay là Nga – Việt), chúng tôi tiến hành sưu tầm và biên soạn Tuyển thơ “Nối hai đầu thế kỷ” này với mục đích giới thiệu một phần tâm tư tình cảm của người Việt Nam đã từng sinh sống, học tập và lao động tại Liên Xô và LB Nga ngày nay, tính từ thế hệ học sinh, sinh viên đầu tiên từ 1954 đến nay, kể cả những người đã từng tham quan du lịch ngắn ngày. Vì thế nên bạn có thể gặp ở đây những nhà thơ chuyên nghiệp nổi tiếng, cả những sinh viên mới bước đầu cầm bút, đến những người công nhân lao động bình thường, có thể thơ họ chưa được trau chuốt, nhưng tình cảm của họ chân thành và cảm động.
Dẫu vật đổi sao dời, dẫu cho thể chế thay đổi, nhưng tình yêu với Liên Xô, với nước Nga trong lòng người Việt Nam không thay đổi. Dù đã về nước, hay ở lại định cư, họ không thể nào quên tấm lòng nhân hậu của nhân dân Nga, của các dân tộc Liên Xô dành cho mình, cho đất nước mình. Yêu mến Liên Xô đến mức, khi nghe tin Liên Xô tan vỡ, nhiều người bàng hoàng, ngơ ngác, có người bật khóc vì tiếc nuối.
Nhiều người Việt Nam coi nước Nga, Liên Xô là quê hương thứ hai của mình. Những ai đã từng dự chương trình Thầy trò Xô Việt năm 2010, hay chương trình đón tiếp các nguyên thủ quốc gia Nga sang thăm Việt Nam, sẽ thấy được tình cảm biết ơn vô hạn của các cựu sinh viên, nghiên cứu sinh Việt Nam, dành cho những người thầy, dành cho nhân dân và đất nước đã từng dạy dỗ, cưu mang đùm bọc mình. Người Việt Nam du học, công tác, làm việc tại nhiều nước trên thế giới, nhưng tình cảm thắm thiết dành cho đất nước mà mình từng ở, từng đi qua dẫu thời gian ngắn ngủi, có lẽ chỉ có tại Nga và Liên Xô là tình cảm đặc biệt nhất, thắm thiết nhất. Tất cả những sắc thái tình yêu ấy, bạn đọc có thể thấy được trong tập thơ này. Nhưng, bên cạnh những kỷ niệm đẹp, những tình cảm ngọt ngào, bạn cũng sẽ thấy đây đó những nỗi niềm xót xa, cay đắng, những vất vả nhọc nhằn của cuộc mưu sinh nơi xứ Tuyết, mặc dù đây không phải là âm hưởng chủ đạo của tập thơ.
Bạn cũng sẽ thấy trong Tuyển thơ này tình cảm yêu thương tha thiết của những người con sống xa Tổ Quốc dành cho những người thân yêu ruột thịt, đặc biệt là tình yêu dành cho người Mẹ hiền lam lũ ở quê hương. Hình ảnh cây đa, bến nước, con đò, cánh cò trắng trên đồng lúa mênh mông, đồi cọ trung du xanh mướt, người mẹ hiền tần tảo, ngọn khói chiều trên mái tranh nghèo... tưởng chừng đã thành hình ảnh sáo mòn trong văn học, nhưng đối với những người Việt Nam sống nơi xứ tuyết băng giá, lại luôn là nỗi nhớ thường trực, cháy bỏng và da diết. Câu thơ “Dẫu ngày ăn miếng bánh Nga/ Đêm mơ chỉ thấy quê nhà mà thôi” của nhà thơ Nguyễn Đình Chiến đã nói hộ cho tấm lòng của những người con xa Tổ quốc.
Tuyển thơ chúng tôi gửi tới bạn đọc là tuyển thơ của tình yêu. Tình yêu nối liền hai đất nước xa nhau vạn dặm xuyên qua hai đầu thế kỷ. Tình yêu ấy đã được kiểm nghiệm suốt chiều dài lịch sử hơn 60 năm qua và sẽ còn bền vững tới mai sau.
Xin trân trọng giới thiệu tập thơ cùng bạn đọc.
Nhân dịp này, Hội VHNT Việt Nam tại LB Nga xin chân thành cám ơn Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã ủng hộ, tạo điều kiện mọi mặt cho tập thơ được xuất bản và ra mắt bạn đọc trong nước.
Matxcơva 14-05-2014
Châu Hồng Thuỷ
Chủ tịch Hội VHNT Việt Nam tại LB Nga
ĐÔI LỜI VỀ VIỆC TUYỂN CHỌN
Về chủ trương biên soạn Tuyển thơ «Nối hai đầu thế kỷ», trong gần một năm qua, chúng tôi đã thông báo trên Website của Hội VHNTVN tại LB Nga, Website của Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Văn nghệ và nhiều phương tiện thông tin đại chúng trong nước. Những bài thơ đưa vào Tuyển tập này, cơ bản dựa theo nguồn bài do các tác giả tự chọn gửi tới. Có một số bài, chúng tôi sưu tầm trên các sách báo đã xuất bản.
Với dung lượng số trang có hạn, nên trong gần 1.000 bài thơ của các tác giả gửi đến, chúng tôi không thể giới thiệu hết tất cả. Căn cứ vào số lượng và chất lượng bài viết của các tác giả trong và ngoài nước, chúng tôi cố gắng chọn theo hướng để giúp bạn đọc hình dung được phần nào về đội ngũ sáng tác của Hội VHNT VN tại LB Nga và diện mạo chung của Thơ ca người Việt trong dòng văn học Việt Nam tại nước Nga và Liên Xô mấy chục năm qua.
Tên các tác giả được sắp xếp theo thứ tự ABC, bắt đầu từ tên họ, tên đệm và tên gọi.
Do điều kiện ở nước ngoài, nên việc sưu tầm tuyển chọn chắc chắn còn thiếu rất nhiều bài thơ hay của các nhà thơ, nhà văn, các bạn sinh viên, các bạn công nhân đã về nước, đặc biệt là các tác giả đã mất. Phần giới thiệu tiểu sử một số tác giả còn sơ lược, bởi chính các tác giả đã có tên tuổi không muốn giới thiệu nhiều về mình, hoặc có những tác giả chúng tôi chưa liên hệ được sau khi họ về nước.
Đây là Tuyển tập thơ của những người từng sinh sống, học tập, công tác, lao động lâu dài, hoặc đã từng công tác, tham quan du lịch ngắn ngày tại LB Nga và Liên Xô cũ. Những bài thơ viết về nước Nga và Liên Xô của các tác giả khác chưa có điều kiện đặt chân lên đất nước này, tuy rất hay, nhưng không phù hợp với đối tượng của việc tuyển chọn, chúng tôi không đưa vào Tuyển tập.
Về phiên âm tên người, địa danh, trong mấy chục năm qua có nhiều biến đổi, chúng tôi chấp nhận cả cách phiên âm cũ và mới của các tác giả. Ví dụ: Lê - nin (cũ) = Lenin (mới), Tuốc-ghê-nhi-ép = Turgeniev, Tôn-xtôi = Tolstoi, Công-xtăng-tin Pau-xtốp-xki = Konstantin Paustovski, Nhê-va = Neva, Xanh Pê-téc-bua = Saint Petersburg = Sankt Peterburg, Ki-ép = Kiev, Mạc - Tư - Khoa = Moskva = Maxcơva = Matxcơva, Vôn-ga-grat = Volgagrad…
Trước khi in thành sách, thơ của các tác giả gửi tham gia Tuyển tập, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu trên Website của Hội VHNTVN tại LB Nga: http://www.nguoibanduong.net/
Hy vọng trong lần tái bản, chúng tôi sẽ nhận được thơ bổ sung của các tác giả để Tuyển tập sẽ phong phú hơn, đầy đủ hơn.
Nhóm Biên soạn