Tin tức  |  Diễn đàn  |  Thư viện hình  |  Liên hệ
Thứ tư,
29.03.2023 02:45 GMT+7
 
 
Kho bài viết
Tháng Ba 2023
T2T3T4T5T6T7CN
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31    
 <  > 
Nhận thư điện tử
Email của bạn

Định dạng

Thành viên online
Thành viên: 0
Khách: 1
Số truy cập: 1669085
Tin tức > Văn học thế giới > Xem nội dung bản tin
"Hoàng Hạc Lâu": Ba bản dịch độc đáo (Nguyễn Khôi)
[04.10.2013 15:27]
Xem hình
Trong " Toàn Đường Thi" (gồm 42.863 bài thơ của 2520 Thi sĩ đời Đường) - Nếu chỉ lấy 1 bài thơ tiêu biểu thì chắc là ai cũng chọn đó là "Hoàng Hạc Lâu" cuả Thôi Hiệu?

"Hoàng Hạc Lâu" thuộc hàng đệ nhất luật thi đời Đường. Tác giả của thiên kỳ thi tuyệt hảo này là Thôi Hiệu ( ?-754) người Bịện Châu (Khai Phong-Hà nam) đỗ Tiến sĩ năm Khai nguyên 13 (725) làm Quan tới chức Tư huân viên ngoại lang, hàm tứ phẩm (cỡ Vụ phó ngày nay). Ông tính lãng mạn, ham đánh bạc, rượu chè "của lạ" (thay vợ đến 4 lần). Hồi trẻ thơ ông diễm lệ bóng bẩy, đến cuối đời phong thái cốt cách mạnh mẽ rắn rỏi, sáng tạo tân kỳ có thể theo kịp Giang Yêm, Bão Chiếu... Ông khổ vì ngâm vịnh đến trở bệnh xanh xao hốc hác cả người (hết mình vì thơ  là vậy); Bạn ông nói đùa "không phải Bác bệnh đến như vậy, bởi khổ vì  ngâm thơ nên gầy thôi" !

Lầu Hoàng Hạc xây dựng từ thời Tam Quốc, vốn là "tửu quán" - đó là 1 trong tam đại danh lâu của xứ " Giang Nam hảo " nơi hội tụ cuả các văn nhân tài tử đến đây uống rượu và làm thơ... Theo sách " Cổ đại thi tứ cố sự" thì Thôi Hiệu đề thơ ở Lầu Hac Vàng ở tư thế: thi sỹ nhìn Hán Dương ở bờ sông bên kia, "Tình Xuyên Các" bị che lấp trong ráng chiều tà, bãi Anh Vũ giữa sông phủ một lớp cỏ dày...

Nguyên văn bài thơ bằng chữ Hán

 黃鶴樓

 ?人已?黃鶴去,

 此地空?黃鶴樓。

 黃鶴一去不復返,

 白雲千載空悠悠。

 晴川歷歷漢陽樹,

 芳草萋萋鸚鵡洲。

 日暮鄉關何處?,

煙波江上使人愁。

Phiên âm Hán-Việt

 Hoàng Hạc Lâu

Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,

Bạch vân thiên tải không du du.

 Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,

 Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Dịch nghĩa

Lầu Hoàng Hạc

Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,

Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc

 Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại

Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không

Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một

Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi

Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?

 Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!

(theo Wikipedia)

Lầu Hoàng Hạc . Ảnh chụp năm 1920

Thầy giáo của NK đã từng giảng giải: cái diệu của Thôi Hiệu ở chỗ chỉ một câu tả "Lầu", còn 3 câu kia đều tả "người xưa"... trong đó câu 1 là tả "người xưa", câu 3 là nghĩ "người xưa", câu 4 là ngóng "người xưa", cứ như phớt lờ không nhắc gì đến "lầu". Câu 5-8 tiền giải là tả "người xưa", hậu giải tả "người nay", tuyệt nhiên không tả đến "lầu"... Thi sỹ chỉ nhất ý tựa cao trông xa, riêng thổ lộ hoài bão của mình. Rồi "hương quan hà xứ thị" (ở nơi này) với cây thì "lịch lịch" (in rõ), bãi thì "thê thê" (tươi tốt), riêng có mắt thì ngóng "hương quan" là không biết "hà xứ" (nơi nào). Rồi với hai chữ "nhật mộ" (chập tối lúc chim về tổ, gà vào chuồng) đặt ngang lên câu thơ làm cho 24 con chữ trong 4 câu tiền giải cùng nhảy múa tạo nên tuyệt tác để "đời sau đừng ai làm thơ về Hoàng Hạc Lâu nữa mà chuốc lấy hổ thẹn."

Vâng, đúng là thế: cái diệu của Thôi Hiệu là trong 8 câu, chỉ có một câu nói đến Lầu (câu 2). Câu 3 "Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản" là câu rất đặc biệt: dùng liên tiếp 6 chữ "trắc" trong câu thơ 7 chữ, bất chấp luật bằng trắc, với bút pháp ấy khiến câu thơ mang sức mạnh (nội lực) khác thường. Để làm gì? - để nhấn mạnh cái ý "tiền bất kiến cổ nhân"

- "nhất khứ" là một đi - "bất phục phản" là không trở lại... câu này nói lên cái lẽ vô thường của  mọi người, mọi việc.

Câu 3 đối câu 4: ý là thôi, đừng hoài niệm mãi nữa

Hoàng Hạc Lâu với cái ý tại ngôn ngoại đó là cái độc đáo của Đường thi mà nó là tiêu biểu số 1; và chính cũng vì lẽ đó mà xưa nay các nhà thơ ta đã bị Hoàng Hạc Lâu "thôi miên" ám ảnh, hết thế hệ này đến thế hệ khác lao tâm khổ tứ "dịch" nó, đến nay đã có ngót 100 bản dịch. Theo thiển ý của NK thì có 3 bản dịch đáng lưu ý là:

1. Bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục

Người tiên xưa cưỡi Hạc vàng cút,
Ở đây chi những lầu hạc trơ.
Hạc Vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bạc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ lên Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá?
Mây nước trên sông khách thẫn thờ.

(Nam Phong tạp chí - năm 1923)

Đây là bản dịch khá chối tai (rất trúc trắc) nhưng khá công phu, khá già tay (túc Nho); công phu ở chỗ: theo sát nhạc điệu của nguyên tác, sát cả ở những chỗ sai niêm, thất luật.

2. Bản dịch của Tản Đà:

  Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà  đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
  Hạc vàng bay mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
  Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
  Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(In ở tạp chí Ngày Nay số 80, ngày 10-10-1937)

Đây là một bản dịch tài hoa, bay bướm nhẹ nhàng, văn chương trầm bổng theo cung điệu lục bát (đượm hồn dân tộc). Ở nguyên tác đó là cái không khí mang mang day dứt nỗi bơ vơ hiu quạnh của thân phận con người, lạc lõng giữa trần gian trong một chiều nắng tắt. Mà thiên đường thì đã mù mịt lối về. Cái không khí Hàn Lâm ấy đã bị Tản Đà thuần hóa trở nên nhu mì, mềm mại, nhẹ nhàng, trôi chảy trong dòng ca dao (lục bát). Cái HAY của Tản Đà là ở chỗ ấy, nó vào hồn người Việt là vì lẽ ấy, nhưng đó cũng là cái hụt hẫng khi dịch như thế?

3. Bản dịch của Vũ Hoàng Chương

Xưa Hạc Vàng bay vút bóng người,
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!

Như ta đã biết: Thôi HIệu  (con người phát ốm vì làm thơ) đã vận dụng hết 10 phần công lực phá vỡ luật thơ thất ngôn, sử dụng 6 thanh "trắc" liên tiếp mới nói được:

Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch Vân thiên tải không du du

Để đến độ hùng tâm dũng khí như Đại thi hào Lý Bạch vẫn phải gác bút (đạo bất đắc) chịu thua, cúi đầu ra đi...

Còn thi sỹ Vũ Hoàng Chương sau 1000 năm thì ung dung rút kiếm, giữa trời thơ, phóng con mắt nhìn đời dõi theo cánh hạc đã mù khơi bay mất mà thong thả dụ dắt nó quay về trong cung bậc thất ngôn niêm luật (nói theo Tô Thẩm Huy). Đó là hai câu thực của Vũ bay bổng giữa trời ảo diệu:

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một màu mây vạn vạn đời

Một màu vàng lóe lên giữa trời vụt tắt, một màu vàng tung lên rồi vĩnh viễn ra đi, không bao giờ trở lại, nhưng mãi mãi lấp lánh trong tâm tưởng và thâm phận con người (kiếp nhân sinh). Đọc đến câu cuối "đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi thì là cả một trời Đường thi bỗng lay động". Giá Thôi Hiệu phục sinh đọc bản dịch của Vũ thì chắc cũng bái phục: "Sóng ơi, sầu đã chín, xin người thôi giục, đó là sóng của bể dâu, hưng phế."

Ta thử đọc lại hai câu theo âm Hán/ Việt:

- Yên ba giang thượng sử nhân sầu
- Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!


Thì sẽ thấy nội công thâm hậu của Vũ:

- Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Nếu đưa chữ "hạc" lên đầu câu:

- Hạc vàng tung cánh đi đi mãi

Thì cả một trời thơ lung linh tối sầm lại? Thi tài là thế - và có lẽ sau Vũ Hoàng Chương không ai nên dịch lại (Hoàng Hạc Lâu) nữa?

Góc thành nam Hà Nội ngày 27-3-2010

Nguyễn Khôi - Cẩn bút

Tin liên quan:
Bạch Y Ngũ Bút: Thú chơi hoa "điếc không sợ súng" của Vương phu nhơn (phần 2) (14.11.2017 18:05)
Bạch Y Ngũ Bút: Thú chơi hoa "điếc không sợ súng" của Vương phu nhân (phần 1) (14.11.2017 17:11)
Vì sao văn học Trung Quốc đương đại không có tác phẩm sám hối? (12.04.2016 20:03)
Thần Thi Vương Bột [Kỳ 2] [c] Đền phúc vị, huyền thoại và sự thật (19.12.2013 03:20)
Nhà văn đói ăn - An Điềm (Trung Quốc) (28.11.2012 23:49)
 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email



Những bản tin khác:



Lên đầu trang
Các bản tin mới đăng
Nguyễn Trọng Oánh - Hồi ký của Nguyên Ngọc
Chùm thơ Lê Tuyết Lan (Tiền Giang)
Truyện ngắn và tản văn của Nguyễn Thị Liên Tâm
TỪ BIỂN LÊN RỪNG - Bút ký của Ngô Xuân Huệ
Chùm thơ xuân của Trần Ngọc Ánh
Chùm thơ Đặng Hữu Trung
Thơ Dương Thuấn - song ngữ Tày Việt - P 3
Tập thơ "Tình ca Thiếu Khanh" - Phần 2
THƠ DƯƠNG THUẤN - (song ngữ Tày - Việt) P 2
Tập thơ “Tình ca Thiếu Khanh” - Phần 1
Tin cùng chủ đề
Các nhà thơ giải Nobel
Astrid Lindgren- Nữ văn sĩ của trẻ em
Quỳnh Dao – Tình yêu vẫn còn nồng nàn
'Đồi gió hú' là chuyện tình đẹp nhất mọi thời
Những người tình của Victor Hugo
Tiểu thuyết Kim Dung: Cuộc 'đại phẫu thuật lần thứ ba'
"Biểu tượng đã mất" - sách bán chạy nhất của Dan Brown trong tháng 9
Thành Long: Đa tài và... đa tình
Tâm sự tuổi già - đôi điều cảm ngộ (Dương Trạch Tế - Trung Quốc)
'Tôtem sói' đoạt giải Booker châu Á
 
 
 
Thư viện hình