Trong phạm vi bài viết này tôi xin mở đầu bằng một giai thoại quái đản nhất vừa nghe được. Sự quái đản ở đây tùy nghi ai muốn hiểu sao thì hiểu trong khi câu thơ đồn đại về tôi lại khởi nguồn từ một tình bạn rất đẹp. Cụ thể từ hai câu thơ tam sao thất bổn sau đây:
“Trọc đầu BÙI làm sao CHÍ ở
Nhục còn chưa có lấy gì VINH”
Và họ nói rằng hai câu thơ trên là do Bùi Giáng ứng khẩu tặng tôi trong bàn nhậu lúc tôi đang múa may chữ nghĩa, khiến tôi hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Suy nghĩ như thế không riêng gì tôi mà những người quen biết tôi đều phải phì cười. Bởi một lẽ đơn giản, tác giả hai câu thơ trên không phải là Bùi Giáng tiên sinh mà là ông anh Mặc Tuyền, một nhà thơ kiêm kịch tác gia bụi đời làm “chọc quê” tôi khi tôi mạt lộ đang ngồi ở vĩa hè phụ sửa xe cùng anh Phan Văn Bồng tự Bế Văn Bồng mưu sinh kiếm sống vào thời điểm cuối thập niên 80 đói rách. Thời điểm ấy nạn dịch bo bo khoai mì hoành hành, mâm cơm không có gạo trắng mà ăn, Mặc Tuyền cố kiềm chế sự ngông cuồng của tôi nên làm hai câu khá cảm động. Vừa chơi chữ, vừa nói về chữ “nhục”, nhục ở đây có nghĩa là “thịt”, thi sĩ lớn cỡ nào mà đầu cạo trọc và thiếu thịt ăn thì bao tử cũng đói meo và chí khí lẫn chí mén (chấy nhỏ) cũng đi chơi chỗ khác.
Còn Bùi Giáng tiên sinh đương nhiên thuộc về đẳng cấp khác. Ông và tôi không phải huynh đệ hoặc thân thiết tri kỷ nhưng khi gặp nhau chưa bao giờ ông dèm pha biếm nhẽ thế hệ sau mình. Giai thoại giữa tôi và ông độc đáo hơn nhiều. Cách đây hơn 20 năm tôi và Hồ Lê Thuần (con trai cố bí thư Thành Đoàn trước 1975 là Hồ Hảo Hớn) vi hành xuống miệt Gò Vấp chợ Long Hoa lúc nửa đêm. Nhằm vào lúc Bùi Giáng rời chùa Long Huê gần đó ra chợ quậy tưng bừng khói lửa với một cây chổi rách tượng trưng cho ấn kiếm. Gọi là ấn kiếm vì Bùi Giáng luôn vỗ ngực xưng vương bất cứ lúc nào cao hứng. Đêm đó chúng tôi ngồi uống rượu vĩa hè chứng kiến “vua cỏ” Bùi Giáng làm bà con chạy tán loạn và nhìn ông múa chổi tiến về phía chúng tôi. Ông vừa đi vừa khạc thơ rồi dòm trừng trừng vào mặt tôi. Trong cơn say xỉn ngất trời, Hồ Lê Thuần xúi tôi đọc thơ đáp lễ. Thế là người ngồi người đứng xuất khẩu thành thi qua lại liên tục. Không biết Bùi tiên sinh “phê” thơ tôi ra sao, chỉ biết Người tự động quỳ xuống bàn chúng tôi dâng cây chổi rách lên và tuyên bố “Đêm nay Trẫm thay mặt cựu hoàng Bảo Đại giao ấn kiếm cho thế hệ Hồ Chí Minh”. Câu nói đầy tính “chính trị” và đối phó của Bùi Giáng bắt buộc tôi phải nhận cây chổi và làm một bài thơ tặng ông tại chỗ, có chép lại nhét túi ông đàng hoàng, xin mạn phép ghi ra đây để khép lại lời đồn về sự “tâm phục khẩu phục” của tôi trước Bùi Giáng:
CÁCH LẠY CỦA BÙI GIÁNG
“Liên tồn, l… tiên, liền tôn”
Bác Bùi chưa gặp đồng môn đây mà
Ta hăm bảy tuổi đăng khoa
Bác hơn sáu chục mới là Trạng Nguyên
“Bác đi, bi đát” cơn điên
Để mua trí tuệ “l… tiên, liên tồn”
“Riêng ta” thành “ra tiên” con
Lúc say xỉn vỗ hậu môn cười khà
“Bán dùi Bùi Giáng” xót xa
“Bình Chí Vui” ta vốn là “Bùi Vinh”
Bác không màng nhắc triều đình
Có đâu ta nỡ cố tình làm vua
Chi bằng giữa chợ say sưa
Bùi to Bùi nhỏ đi lùa các em
Kìa sao bác lạy như điên
Đợi ta đỡ dậy chiêu hiền nữa sao?!?

Nhà thơ Bùi Giáng
Ngoài ra tôi còn chép cho Bùi tiên sinh bài thơ BÌNH CHÍ VUI khi ông muốn tôi bình tĩnh chí nam nhi trở lại để có thể tồn tại trước bọn sâu bọ làm người. Tôi đã làm bài thơ này theo “môđen “ tiếng lái và chơi chữ của ông:
BÌNH CHÍ VUI
“Bùi Chí Vinh, Bình Chí Vui”
Không bình chí, chắc tiếng cười mất tiêu
Chí trong bình, chí mốc meo
Chui ra bình, chí mới nhiều nhục vinh
Bùi làm thiên hạ giật mình
Sờ ngay “cái đó” kẻo em mếch lòng
“Bùi như lạc” nhậu sướng không?
“Trần như nhộng” Bùi tồng ngồng đái chơi
Bất bình nên chí chưa vui
Các em nên gọi ông Bùi Chí Vinh
Một giai thoại nữa có liên quan tới Trần Mạnh Hảo khi họ Trần dẫn theo hai vị chức sắc thuộc tỉnh Hà Nam Ninh đến Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo ăn nhậu và ra câu đối thách thức. Chuyện đó đã hơn 15 năm. Hôm đó tôi đang ngồi uống bia dưới gốc cây đa cùng với Nguyễn Quốc Chánh, Đoàn Vị Thượng … và nhiều anh em văn nghệ khác. Hai bên chào nhau và ráp bàn. Trần Mạnh Hảo tuyên bố “Có một câu đối chúng tôi ra vế mà từ Bắc vô Nam chưa ai đối được hoàn hảo về mặt nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nếu các bạn trong bàn giải được, chúng tôi cá độ một chầu nhậu thả giàn”.
Vế đối ra như sau:
“BATA đi giày vải”
Phải thú thật là vế ra quá độc. Bởi băng “Hà Nam Ninh” của Trần Mạnh Hảo gồm đúng 3 người, mà cả 3 đều đi giày vải, và giày vải đều mang hiệu BATA. Thế là anh em chiến hữu đều hướng mắt về phía tôi. Trong tình thế chỉ mành treo chuông, tôi gật đầu cái rụp.
Sau 15 phút động não nhằm xác minh một đơn vị tiểu thủ công nghiệp mang tên “Đại Chúng” chuyên sản xuất dép râu ở Chợ Lớn, tôi hùng hồn đứng dậy đối lại như sau:
“ĐẠI CHÚNG lết dép râu”
Câu đối lại đã quá rõ ràng. Khi ba cán bộ đi giày Bata thì đám đông đại chúng nghèo khổ đành phải mang dép râu lết bánh. Thế là sau một hồi tranh cãi gọi điện thoại bàn xác minh cơ sở sản xuất dép lốp Đại Chúng có thật hay không thì băng Trần Mạnh Hảo đành phải chung độ chứ còn phải hỏi.
Cũng trong giai thoại về câu đối, nhân đây tôi nhắc chuyện này như một nén nhang thắp tặng linh hồn hai vị thuộc giới văn nghệ đã khuất. Đó là hai nhà thơ trào phúng Tú Rua và bác Cử Tạ vốn là hai nhân vật nằm trong hai câu đối của tôi. Chuyện xảy ra vào cuối thập niên 80 khi tôi và Lê Dụng (con trai cố nhạc sĩ Hoàng Việt) đến nhà Tú Rua chơi. Nhà thơ trào phúng Tú Rua vừa là chủ tiệm may đắt khách vừa là một cộng tác viên đắc lực của báo Văn Nghệ TP nơi Lê Dụng công tác. Trong lúc trà dư tửu hậu chén tạc chén thù ông chủ tiệm may Tú Rua cao hứng phán một câu “Nghe đồn Bùi Chí Vinh có khả năng ứng tác về ca từ thi phú cổ điển. Vậy ông có ngon làm hai câu đối nói về chí khí của Tú Rua tôi trong sáng như sao Tua Rua trên bầu trời đêm thì tôi sẵn sàng đãi ông và Lê Dụng suốt một ngày khắp các quán Sài Gòn”. Lời phán của Tú Rua như một tiếng sét đánh ngang mày. Mà đã là sét đánh thì nháng lửa và tung tóe như sao. Bất giác tôi liên tưởng đến bác Cử Tạ phụ trách mục “Ôn Cố Tri Tân” trên báo Long An cuối tuần thường hay bốc thuốc Đông Y ở khu Ông Tạ. Tôi nháy mắt với Lê Dụng như một nhân chứng và xuất khẩu thành…hai câu đối như sau:
TÚ RUA “rua” SAO RUA
CỬ TẠ tạ ÔNG TẠ
Tôi thấy Lê Dụng khoái trá còn Tú Rua lặng người. Trong ba từ “rua” của vế trên thì chữ “rua” thứ nhì là tiếng Pháp có nghĩa là “bắt tay”. Tương tự trong ba từ “tạ” của vế đáp thì chữ “tạ” thứ nhì thuộc tiếng Hán có nghĩa là “vái chào”. Và kết quả là chúng tôi say xỉn quắc cần câu như thế nào có lẽ các bạn cũng hình dung ra được...